Mới đây, ông Lê Đình Đức (sinh năm 1975, ngụ ấp Gia Hòa, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) gửi đơn đến Báo Thanh tra phản ánh Tòa án Nhân dân (TAND) huyện Xuân Lộc tuyên án thiếu khách quan để “tước đoạt” quyền sử dụng đất hợp pháp của ông giao cho người khác.
Ông Lê Đình Đức kháng cáo hủy toàn bộ bản án sơ thẩm và yêu cầu trả lại 1.223,3m² đất để yên tâm làm ăn và ổn định cuộc sống. Ảnh: Chí Cường
Chúng tôi vào cuộc thu thập hồ sơ, phát hiện bản án còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ và TAND huyện Xuân Lộc có dấu hiệu ra bản án trái pháp luật?
Lấn chiếm đất rồi kiện chủ đất ra toà
Năm 1985, gia đình ông Lê Đình Huấn đến ấp Gia Hòa lập nghiệp, trồng lúa và đến năm 1997, UBND huyện Xuân Lộc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số K 383670 có 5 thửa, trong đó có thửa 376 có diện tích 2.027m2.
Năm 1999, ông Huấn qua đời, con cái đi làm xa nên ông Lê Trọng Đại (sinh năm 1974, láng giềng) chủ sở hữu thửa đất 252, tờ bản đồ 06 liền kề lấn chiếm khoảng 1.000m2 để trồng hoa màu.
Đến năm 2018, gia đình mới thống nhất chia tài sản thừa kế cho ông Lê Đình Đức là toàn bộ thửa đất số 376 và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp lại GCNQSDĐ năm 2019 với diện tích 2.138,5m2 thuộc thửa đất 23, tờ bản đồ 06 (thửa 376 cũ) và ông Lê Trọng Đại là người ký giáp ranh.
Dù việc cấp GCNQSDĐ cho ông Huấn đúng trình tự, phù hợp quy định pháp luật nhưng bất ngờ vào năm 2020, ông Đại dùng giấy sang nhượng đất do ông Lê Minh Chính viết tay, bán cho ông Đại đề ngày 15/5/1995, khởi kiện ông Đức ra TAND huyện Xuân Lộc yêu cầu công nhận diện tích đất nói trên.
Ngày 20/9/2022, ông Nguyễn Văn Linh, Phó Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc ký Văn bản số 8611/UBND-NL gửi TAND huyện Xuân Lộc cho rằng, việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Huấn là cấp đồng loạt không đối soát ngoài thực địa. Đó là một trong những cơ sở để ngày 31/3/2023, TAND huyện Xuân Lộc ban hành Bản án sơ thẩm số 04/2023/DS-ST, công nhận ông Đại được quyền sử dụng 1.223,3m2 đất mà gia đình ông Đức được cấp.
Tước đoạt 1.223m² đất trái pháp luật?
Theo hồ sơ chúng tôi có được, vụ án còn nhiều khuất tất chưa được làm rõ và TAND huyện Xuân Lộc có dấu hiệu bỏ lọt chứng cứ, tuyên án thiếu khách quan, gây thiệt hại cho ông Đức.
GCNQSDĐ của gia đình ông Lê Đình Đức do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp năm 2019. Ảnh: Chí Cường.
Thứ nhất, TAND huyện có dấu hiệu “bỏ qua” chứng cứ quan trọng là ông Đại (người khởi kiện) không có GCNQSDĐ. Trong khi đó, gia đình ông Đức đã được cấp GCNQSDĐ số K 383670 từ năm 1997. Hiện UBND huyện Xuân Lộc, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai TAND các cấp vẫn đang công nhận quyền hợp pháp GCNQSDĐ của gia đình ông Đức. Bằng chứng là GCNQSDĐ kể trên và sau này là giấy của ông Đức chưa bị UBND huyện Xuân Lộc, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai TAND các cấp thu hồi, hủy bỏ.
Hai là, đơn khởi kiện của ông Đại là ngụy tạo vì giấy sang nhượng đất ngày 15/5/1995, có nội dung: “Tôi tên Lê Minh Chính, CMND số 270004632 cấp ngày 02/12/2011… có sang nhượng lại cho cháu tôi Lê Trọng Đại”, nộp đến TAND huyện Xuân Lộc. Cụ thể, ngày 2/12/2011, ông Chính được cấp CMND nhưng lạ kì thay, ngày 15/5/1995, ông Chính “trở về quá khứ” ký sang nhượng đất không có diện tích, số thửa. Tuy nhiên, TAND huyện Xuân Lộc vẫn “coi như chứng cứ” để tuyên 1.223,3m² đất ông Đức đứng tên chủ quyền, giao cho ông Đại.
Ba là, diện tích 1.223,3m² không có biến động, nghĩa là chủ đất không sang nhượng, mua bán với ai khác. Cụ thể, ông Đại khởi kiện: “Ông Lê Doãn Khoan mua từ ông Lê Đình Huấn đã có nhà cấp 4 mái tôn”. Tuy nhiên, khi chúng tôi đối chiếu với 10 tài liệu liên quan thửa đất số 23 của Văn phòng Đăng ký đất đai – Chi nhánh huyện Xuân Lộc cung cấp cho TAND huyện Xuân Lộc thì mới “tá hỏa” còn nhiều khuất tất. Đó là, hồ sơ của thửa đất 23 nói trên chỉ có: Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất của Lê Đình Đức, lý do biến động nhận thừa kế, GCNQSDĐ số K 383670 do UBND huyện Xuân Lộc ký ngày 27/10/1997, GCNQSDĐ số CS 842742 do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp ngày 23/9/2019… Đáng ngạc nhiên, không có giấy tờ gì chứng minh ông Huấn đã bán cho ông Khoan diện tích đất trên, nên ông Đức cho rằng TAND huyện Xuân Lộc có dấu hiệu chưa xem xét khách quan, đầy đủ chứng cứ vụ án.
Bốn là, TAND huyện Xuân Lộc có dấu hiệu kết luận vội vàng là, diện tích đất do ông Đại sử dụng ổn định từ năm 1995, nhưng trước đó, vào ngày 14/5/1994, Hội đồng Xét duyệt cấp giấy chứng nhận xã Xuân Trường thuận chủ trương cấp GCNQSDĐ cho ông Huấn, số thửa 05, diện tích 12.336m2 và được Phòng Địa chính huyện Xuân Lộc phê duyệt.
Liên quan đến Công văn số 8611/UBND-NL (ngày 20/9/2022) về quy trình “đối soát ngoài thực địa”, ông Đức đã gửi đơn khiếu nại đề nghị Chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc thu hồi, hủy bỏ vì ngoài việc trái Điều 2 Luật Đất đai năm 1993, công văn không phải quy phạm pháp luật.
Ông Đức bức xúc: “UBND huyện Xuân Lộc không có quyền ra quy trình mới. Công văn không có giá trị làm căn cứ để TAND huyện Xuân Lộc vận dụng vì không phải là quyết định thu hồi, hủy bỏ GCNQSDĐ do Sở Tài nguyên và Môi trường cấp cho tôi”.
Vụ việc rõ ràng, nhưng không hiểu vì lí do gì, TAND huyện Xuân Lộc vẫn ra bản án khiến bị đơn bức xúc, làm đơn kháng cáo lên TAND tỉnh Đồng Nai đề nghị huỷ Bản án số 04/2023/DS-ST của TAND huyện Xuân Lộc và trả lại cho ông 1.223,3m² đất để yên tâm làm ăn và ổn định cuộc sống.
Trao đổi với chúng tôi, luật sư Nguyễn Văn Huân (Đoàn Luật sư TP HCM) nêu quan điểm: “So sánh Giấy sang nhượng đất đề ngày 15/5/1995 và Bản án sơ thẩm số 04-2023/DS- ST của TAND Xuân Lộc, tôi nhận thấy có chứng tích chứng minh thẩm phán, hội thẩm nhân dân cố ý ra bản án trái pháp luật để “tước đoạt” quyền sử dụng đất 1.223,3m2 của ông Đức, giao cho ông Đại là người chiếm đất của ông Huấn (sau đó là ông Đức).
Điều đáng nói, ông Đại cũng không thuộc trường hợp chiếm hữu ngay tình, liên tục, công khai đối với diện đích đất này để áp dụng Điều 236 Bộ luật Dân sự năm 2015. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp và công bằng, ông Đức cần kháng cáo bản án sơ thẩm của TAND huyện Xuân Lộc đến TAND tỉnh Đồng Nai yêu cầu tuyên hủy án sơ thẩm và buộc ông Đại trả lại đất đang chiếm của ông Đức”.
Chí Cường / Theo thanhtra.com.vn